Dù cho dòng chảy thời gian có trôi nhanh đến đâu, nhịp sống hiện đại có hối hả thế nào, đờn ca tài tử vẫn luôn giữ cho mình một khoảng trời riêng, một vị trí đặc biệt trong lòng người Nam Bộ.
Vào một buổi chiều muộn ở miền quê, cha đưa tôi đi thăm vườn dừa nước nằm nép mình giữa những con lạch trĩu nặng phù sa bằng chiếc ghe nhỏ của gia đình. Ở chốn yên bình này, những con đường tráng nhựa tinh tươm gần như đã bao phủ hầu khắp hệ thống giao thông đường bộ, vậy mà cha tôi vẫn thích thong dong đẩy đưa từng nhịp mái chèo khua nước bạc. Bởi với ông, mỗi lần chèo ghe là một lần trở về với tuổi thơ, với những kỷ niệm đẹp đẽ về những ngày tháng rong ruổi trên sông nước cùng bạn bè.
Tình cờ, chiếc ghe nhỏ của cha con tôi chạm mặt một đoàn đờn ca tài tử đang biểu diễn trên một chiếc thuyền chở khách du lịch. Là những cư dân "chính chuyên" của miền Cửu Long Giang bên lở bên bồi, những nghệ sĩ đờn ca tài tử ngân nga từng giai điệu du dương, luyến láy câu hát uyển chuyển theo điệu đàn.
Họ không ca bằng chất giọng phô diễn kỹ thuật, mà bằng tấm chân tình của người miền Tây mộc mạc, chân chất, không cầu kỳ hình thức bên ngoài. Giọng hát ấy không chỉ là âm thanh, mà còn là tiếng nói của tâm hồn, là chiếc cầu nối vô hình đưa những người bạn năm châu đến gần hơn với di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
"Đặc sản" tinh thần của người Nam Bộ
Đờn ca tài tử là một loại hình đặc trưng của miệt vườn sông nước phương Nam. Đây là loại hình nghệ thuật của đàn (đờn) và ca, xuất phát từ những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động.
Theo chia sẻ của NSƯT Huỳnh Khải, nguyên Trưởng khoa Âm nhạc dân tộc của Nhạc viện TP.HCM, đờn ca tài tử có nguồn gốc từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian, được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19.
Lần theo dấu vết ra đời của loại hình nghệ thuật này, các nhà nghiên cứu văn hóa đã phát hiện ra một sự thật thú vị: chính những vị nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn, trong bối cảnh phong trào Cần Vương lan rộng từ năm 1885-1896, đã mang theo truyền thống ca Huế vào vùng đất phương Nam. Sự kết hợp giữa Nhã nhạc cung đình Huế và âm nhạc dân gian bản địa đã tạo nên một loại hình nghệ thuật mới, mang bản sắc đặc trưng Nam Bộ – chính là đờn ca tài tử.
Hình ảnh ban nhạc đờn ca tài tử vào năm 1911. Ảnh: Wikipedia.
Kể từ đó, những "ngón đờn" điêu luyện của nghệ nhân đã thấm sâu vào máu thịt người dân nơi đây. "Ca nhạc tài tử", "đàn ca tài tử", "tài tử miệt vườn" đều là những cái tên được dùng để nói về dân ca Nam Bộ nói chung và đờn ca tài tử nói riêng.
Từ những đêm trăng thanh trên sông nước mênh mông, những buổi chiều tà trên đồng lúa bao la hay những dịp lễ hội, đám cưới, đám giỗ, các thanh âm của nghệ thuật đờn ca tài tử lại vang lên, hòa quyện vào không gian và thời gian, tạo nên một bức tranh văn hóa độc đáo. Người dân Nam Bộ đã biến đờn ca tài tử thành một phương tiện để bày tỏ tình cảm, tâm tư, nỗi lòng, cũng như để giao lưu, kết nối với nhau. Tiếng đờn lời ca không chỉ mang đến niềm vui, sự thư thái, mà còn là nơi để họ tìm thấy sự đồng điệu, sẻ chia và gắn bó với cộng đồng, với nguồn cội.
Biến tấu âm sắc, tạo nên âm hưởng riêng biệt
Nghệ thuật đờn ca tài tử gắn kết cộng đồng thông qua thực hành và sáng tạo nghệ thuật dựa trên nền chất liệu ngũ cung và lòng bản của nghệ thuật miền Bắc, miền Trung, trên cơ sở của 20 bài Tổ (bài gốc) và 72 bài nhạc cổ cho 4 điệu, gồm 6 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), 7 bài Hạ (dùng trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 3 bài Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và 4 bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia ly).
Đi kèm với đó là ngôn ngữ dân dã, thấm đượm sắc thái địa phương, góp phần nghệ thuật hóa nét mộc mạc, giản dị của tiếng miền Nam, làm bật lên vẻ trữ tình độc đáo.
Vào thời kỳ sơ khai, ban nhạc đờn ca tài tử chủ yếu sử dụng 4 loại đàn "kìm-cò-tranh-bầu" để biểu diễn. Tuy nhiên, về sau, với sự cách tân, số nhạc cụ tham diễn đã được điều chỉnh, với sự góp mặt của đàn tỳ bà, sáo, tiêu, song loan và thậm chí là hai nhạc cụ của phương Tây – vĩ cầm và guitar "cải tiến" (vĩ cầm được lên dây quãng 4, còn guitar được khoét phím lõm để tăng sự nhấn nhá trong điệu đàn).
Tiếng đàn của danh cầm Văn Vĩ. Nguồn: Tôi Yêu Cổ Nhạc.
Đầu thế kỷ XX, đờn ca tài tử trở thành một phong trào ca nhạc phổ thông tại miền Nam. Trong số các tỉnh phía Nam, Bạc Liêu là một trong những cái nôi lớn của đờn ca tài tử nhờ công lao của ông Lê Tài Khị (1862-1924) hay còn được gọi là "hậu tổ Nhạc Khị" – người đầu tiên đứng ra thành lập Ban cổ nhạc Bạc Liêu.
Ông đã ra công hiệu đính, hệ thống 20 bài Tổ, phân chia các bản nhạc cổ của đờn ca tài tử thành "6 Bắc, 7 Hạ, 3 Nam, 4 Oán". Ông còn sáng tác bốn bản: "Ngự giá đăng lâu", "Minh hoàng thưởng nguyệt", "Phò mã giao duyên" và "Ái tử kê ngự" vốn được giới cổ nhạc tôn xưng là Tứ Bửu (4 món báu vật) của đờn ca tài tử.
Cũng không thể không nhắc đến "Dạ cổ hoài lang" của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. Khúc dạ cổ ấy đã "cắm một cột mốc vào lịch sử và phát sáng như một ngôi sao trên bầu trời âm nhạc Việt Nam" – theo như nhà nghiên cứu Phan Thanh Nhàn đã nói. Từ bản gốc với mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này đã chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp mà thành bài vọng cổ đầu tiên.
Nhà hát Cao Văn Lầu (Bạc Liêu) - Không gian văn hóa lưu giữ các giá trị đẹp đẽ của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ. Ảnh: Lữ Duy Tường.
Những bài ca đờn ca tài tử được lưu truyền từ những năm 1900 chứa đựng những nội dung phản ánh văn hóa lâu đời của người Việt Nam, gắn liền với các đề tài về lịch sử, về công lao cứu nước, giữ nước, về những tấm gương anh hùng dân tộc. Ngoài ra, khía cạnh đạo đức, luân lý gia đình, xã hội cũng thường xuyên được nhắc đến, như tình cha con, sự thủy chung của vợ chồng, tình nghĩa bạn bè… Sang đến thời kỳ phát triển của thơ ca lãng mạn thì tình yêu đôi lứa được thể hiện qua những khúc tân cổ giao duyên, tiếp tục đề cao sự chung thủy giữa người với người.
Vươn mình ra thế giới
Đầu thế kỷ 20, nghệ thuật đờn ca tài tử phát triển mạnh mẽ, lan rộng khắp các tỉnh thành phía Nam.
Không chỉ nổi danh trong nước mà trên trường quốc tế, đờn ca tài tử cũng đã xuất hiện trên sân khấu Paris và Marseille của Pháp, do ông Nguyễn Tống Triều làm trưởng nhóm đờn ca sang tham dự Hội chợ thế giới Paris năm 1900 và Hội chợ thuộc địa năm 1906 diễn ra tại Marseille.
Hơn 100 năm qua, nghệ thuật đờn ca tài tử đã xuất hiện nhiều giọng ca đặc sắc, chinh phục nhiều thế hệ khán giả trong lẫn ngoài nước. Những tên tuổi như nhạc sư Lê Văn Tiếng (Cử Thiện), nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị), nghệ sĩ Bảy Cao, NSƯT Tư Còn, NNND Thanh Tuyết... vẫn mãi vang vọng trong trái tim của giới mộ điệu.
Nghệ sĩ Tư Huỳnh biểu diễn đờn ca tài tử trên ấp đảo Thiềng Liềng, huyện Cần Giờ, TP.HCM. Ảnh: Peter Nguyễn.
Theo NSƯT Huỳnh Khải, đặc trưng của đờn ca tài tử là dễ biến tấu. Chính vì vậy, ở mỗi tỉnh thành Nam Bộ lại có một kiểu đờn ca tài tử riêng có, phản ánh giá trị văn hóa, nét đẹp địa phương của tỉnh thành đó. Do đó mà người nghe có thể "đi du lịch" thông qua những bài ca đờn ca tài tử.
"Tôi ví dụ như bài tân cổ 'Tình anh bán chiếu' của soạn giả Viễn Châu có thể giúp người nghe mường tượng về hình ảnh những người dân chèo ghe bán chiếu trên sông nước hoặc họ sẽ biết được có một làng chiếu truyền thống ở xứ Cà Mau, để rồi từ đó trỗi dậy ý định muốn được tận mắt chứng kiến những gì mình đã được nghe", NSƯT Huỳnh Khải chia sẻ.
Chính vì vậy mà từ những năm 1991, khi du lịch bắt đầu được chú trọng ở Việt Nam thì đã có nhiều địa phương Nam Bộ tổ chức các hội thi sáng tác đờn ca tài tử về du lịch, khuyến khích ca ngợi những điểm đến du lịch của tỉnh nhà, nhằm thông qua lời ca mà quảng bá du lịch, thu hút nhiều khách tham quan.
Ngày 5/12/2013, nghệ thuật đờn ca tài tử chính thức được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Đờn ca tài tử trong nhịp sống hôm nay
Cha tôi vốn nghĩ rằng đờn ca tài tử ngày nay chỉ còn là hoài niệm, ít ai còn mặn mà với loại hình nghệ thuật này. Vậy mà, khi thấy đoàn đờn ca tài tử biểu diễn trên sông nước, phục vụ du khách quốc tế, ông đã vô cùng ngạc nhiên. Nụ cười rạng rỡ hiện lên trên khuôn mặt ông, và ông bắt đầu kể cho tôi nghe những câu chuyện thời thơ ấu, khi ông theo bà nội đi nghe đờn ca tài tử. Trong ánh mắt ông ánh lên niềm hân hoan, như thể ông vừa được sống lại trong những ký ức đẹp đẽ của thuở thiếu thời.
Đúng là chẳng dễ dàng để những giá trị truyền thống của đờn ca tài tử có thể hòa cùng nhịp điệu của thời đại mới.
Tại TP.HCM, để gìn giữ nghệ thuật đờn ca tài tử trên địa bàn, Thành phố đã ban hành kế hoạch "Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ trên địa bàn TP.HCM đến năm 2025".
Trên cơ sở kế hoạch này, Thành phố đã thực hiện nhiều hoạt động như mở các lớp tập huấn truyền dạy về đờn ca tài tử; tổ chức thực hiện các chương trình giới thiệu và trình diễn đờn ca tài tử phục vụ công chúng và sinh viên, học sinh trên địa bàn; tổ chức nhiều buổi tọa đàm, hội thảo khoa học, nói chuyện chuyên đề với sự tham gia của những nhà nghiên cứu, nhà sư phạm âm nhạc dân tộc và những nghệ nhân, nghệ sĩ, soạn giả danh tiếng; thực hiện nhiều chương trình cổ nhạc trên các phương tiện truyền thông đại chúng; tổ chức nhiều cuộc liên hoan, hội thi từ cấp huyện đến cấp thành phố, thu hút nhiều đối tượng, thành phần trong xã hội tham gia.
Liên hoan Đờn ca tài tử Nam Bộ TP.HCM giải "Hoa sen vàng" lần thứ VI năm 2023, một sân chơi nghệ thuật đờn ca tài tử dành cho các nghệ sĩ trên địa bàn Thành phố. Nguồn: Tài tử Sài Thành.
Bên cạnh đó, nhiều chương trình truyền hình thực tế giải trí tại Việt Nam cũng đã đưa đờn ca tài tử vào các thử thách của mình. Từng câu chuyện lịch sử, âm thanh quen thuộc của những bản đờn ca bất hủ được dàn dựng công phu và trân trọng trên nền cảnh quan sông nước đặc sắc của Tây Nam Bộ. Điều này khiến tôi tin rằng, dù trong những năm tháng hiện đại với sự xuất hiện của nhiều dòng nhạc phù hợp với thị hiếu người trẻ, thì đờn ca tài tử vẫn sẽ tồn tại, trọn vẹn trong từng ca từ và thanh âm.

Go And Go Travel
“Một khi bị nhiễm niềm đam mê du lịch, chẳng có phương thuốc nào có thể hóa giải, và tôi biết rằng tôi sẽ hạnh phúc khi có căn bệnh này cho đến hết cuộc đời.” – Michael Palin